TỔNG QUAN – CÁC QUAN XÉT

GIỚI THIỆU

Sách Các Quan Xét đến từ Đức Chúa Trời. Là một phần của Kinh Thánh, có giá trị đối với người ngày nay. Nếu chúng ta xếp Cựu Ước vào một thời đã qua, chúng ta sẽ bỏ lỡ những bài học tuyệt vời mà nó dành cho chúng ta. Cả hai sách 1Cô-rinh-tô 10 và Rô-ma 15 dạy rằng chúng ta cần nghiên cứu và học từ Cựu Ước:

“Những sự ấy có nghĩa hình-bóng, và họ đã lưu-truyền để khuyên-bảo chúng ta là kẻ ở gần cuối-cùng các đời”. (1 Cô-rinh-tô 10:11).

“Vả, mọi sự đã chép từ xưa đều để dạy-dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn-nhục và sự yên-ủi của Kinh-thánh dạy mà chúng ta được sự trông-cậy.” (Rô-ma 15:4).

Bản chất của Đức Chúa Trời và bản chất của con người được thấy rõ trong Sách của Các Quan Xét.

PHÂN TÍCH VĂN HỌC

Các Quan Xét là một cuốn sách lịch sử. Trong khi Kinh Thánh không phải là một cuốn sách lịch sử, nó kể nhiều lịch sử, chủ yếu theo kiểu tường thuật. đặc điểm này làm cho Sách Các Quan Xét rất dễ đọc.

Tác giả

Một số nhà phê bình không coi cuốn sách đã được viết bởi một tác giả. Họ tin rằng một số tác giả có thể đã đóng góp đến nội dung cuốn sách. Talmud nói rằng Sa-mu-ên là tác giả. Edward Young đã trích dẫn Talmud rằng, “Sa-mu-ên đã viết cuốn sách mang tên ông  Sách Các Quan Xét và Ru-tơ” và sau đó ngay lập tức đặt câu hỏi về độ tin cậy của việc truyền miệng này[1]

Niên đại

Một số đoạn trong Các Quan Xét gợi ý rằng cuốn sách được viết muộn hơn đáng kể so với các sự kiện được ghi lại đã xảy ra trong đó. Ví dụ, sau khi nói rằng người Giê-bu-sít không bị đuổi ra khỏi Jerusalem, tác giả nói trong 1:21 rằng họ “đã sống . . . ở Giê-ru-sa-lem đến ngày này.” Tuyên bố này giữ một lý giải khác. Người Giê-bu-sít bị đánh đuổi khỏi Giê-ru-sa-lem bởi Đa-vít; do đó, cuốn sách đã được viết trước thời Đavít.

Mô hình

Một mô hình phát triển sớm trong Các Quan Xét. Các dân Y-sơ-ra-ên quay sang các thần giả, vì vậy Đức Chúa Trời gửi một thế lực nước ngoài đến để áp đảo họ, bắt họ đóng thuế, và giết một số người trong số họ. Họ kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu, thú nhận tội lỗi và ăn năn, vì vậy Đức Chúa Trời đã dấy lên một Người giải cứu. Tuy nhiên, mọi người nhanh chóng quên đi, và mô hình này lại tái diễn. Arthur Lewis được gọi là nhà “thần học về lịch sử” trong chu kỳ này, Ông ấy nói: “Không phải một lần, mà nhiều lần, dân Y-sơ-ra-ên đã trải qua (1) sự yên nghỉ, (2) thờ hình tượng, (3) áp bức, và (4) giải thoát—theo thứ tự đó.[2]

John Willis đã mô tả mô hình này bằng cách sử dụng các bộ phận tương tự: (1) bội đạo, (2) trừng phạt,(3) ăn năn, và (4) giải thoát. Willis lưu ý, “. . . mục đích chính của các tác giả Kinh thánh không chỉ đơn thuần kể lại lịch sử, mà còn dạy những lẽ thật thuộc linh quan trọng.”[3] mô hình này được đề cập trong chính cuốn sách. Trong 2:11-23, mô hình được đề cập rõ ràng. Bài này là phần giới thiệu, cho biết về mô hình, và phần chính của cuốn sách minh họa cho mô hình. Chúng ta phải nhớ rằng đây là một cuốn sách giảng dạy, không chỉ là một ghi chép về những gì đã xảy ra từ thời Giô-suê cho đến thời Sa-mu-ên.

Đề Cương

Walter Harrelson đã chia cuốn sách thành bốn phần:[4]

I. Chinh phục các chi phái khác nhau (1)

II. Bối cảnh chung cho đến thời kỳ của các sử gia (2:1—3:6)

III. Các Quan Xét của Y-sơ-ra-ên (3:7—16:31)

IV. Phụ lục (17—21)

Một sự thần hiện – sự xuất hiện của Đức Chúa Trời với con người, được ghi lại trong 5:4, 5:

“Hỡi Đức Giê-hô-va! Khi Ngài ra từ Sê-i-rơ, Khi trải qua đồng bằng Ê-đôm, Thì đất rung, các từng trời nhỏ giọt, Đám mây sa nước xuống. Trước mặt Đức Giê-hô-va núi bèn đổi ra dòng nước, tức núi Si-na-i kia ở trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.”

Harrelson nói rằng những từ này tạo nên một trong số những bài thánh ca lâu đời nhất của Y-sơ-ra-ên.[5]

PHÂN TÍCH LỊCH SỬ

Khoảng thời gian

Vì Sách Các Quan Xét kể về thời kỳ từ Giô-suê đến Sa-mu-ên, chúng ta có thể cho rằng nó chỉ bao gồm hơn 200 năm. Tuy nhiên, nếu chúng ta cộng lại những năm được đưa ra trong cuốn sách cho mỗi Quan Xét, tổng số vượt quá 400 năm. Sa-mu-ên Schultz đã cung cấp cách tính sau:[6]

SỰ ĐÀN ÁP VÀ GIẢI PHÓNG

trong Sách Các Quan Xét

Sự áp bức của người Mê-sô-bô-ta-mi8 năm3:8  
Ốt-ni-ên sự giải cứu và yên nghỉ40 năm3:11
Người Mô-áp áp bức18 năm3:14
Ê-hút—sự giải cứu và yên nghỉ  80 năm3:30
người Ca-na-an áp bức dưới thời Gia-bin  20 năm4:3
Đê-bô-ra và Ba-rác—giải cứu và yên nghỉ  40 năm5:31
Sự áp bức của người Ma-đi-an  7 năm6:1
Ghi-đê-ôn—sự giải cứu và yên nghỉ40 năm8:28  
A-bi-mê-léc—vua bù nhìn3 năm  9:22
Tola—Quan Xét23 năm10:2  
Giai-rơ—làm Quan Xét22 năm10:3  
Áp bức Am-môn18 năm10:8  
Giép-thê—sự giải cứu và yên nghỉ6 năm  12:7
Iếp-san —Quan Xét7 năm12:9  
Ê-lôn—làm Quan Xét  19 năm12:11
Áp-đôn—Quan Xét8 năm12:14  
Sự áp bức của người Phi-li-tin  40 năm13:1
Sam-sôn—kỳ công và Quan Xét_20 năm15:20  
Tổng cộng  410 năm 

Theo Schultz, đây là cách Paul nhìn thấy về thời kỳ của các Quan Xét khi ông nói trong Công vụ 13, “. . .  Ngài khiến họ nhận lấy đất của các dân đó, Độ trong bốn trăm năm mươi năm; kế đó Ngài lập cho họ các quan đoán-xét cho đến đời tiên-tri Sa-mu-ên.” Vấn đề còn phức tạp hơn trong Các Quan Xét 11:26, nơi Giép-thê nói rằng Người Y-sơ-ra-ên đã kiểm soát khu vực phía đông của Sông Giô-đanh trong 300 năm.

Willis lưu ý rằng Y-sơ-ra-ên có thể đã sử dụng số “40” như một thành ngữ cho “một thế hệ,”[7]  nói thêm rằng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Nó sẽ là sự trùng hợp kỳ lạ đối với ngôn ngữ của một số Quan Xét để trở nên chính xác là 40. Chắc chắn, một vài con số được làm tròn để dễ hiểu. Lang và Kirk đã xem xét vấn đề thời gian này và kết luận, “Không thể vẽ lên một niên đại nhất quán của cuốn sách. Hơn năm mươi niên đại như vậy đã được đề xuất.”[8] Một số cân nhắc từ cuốn sách, chính nó sẽ cung cấp giải pháp cho tình trạng tiến thoái lưỡng nan này.

Đầu tiên, hãy lưu ý rằng một số Quan Xét trị vì đồng thời, hoặc ít nhất là trong khoảng thời gian của họ quyền cai trị bị chồng chéo.

Mà cũng không nên nghĩ đến Cả chức quan xét và các cuộc tấn công vào Y-sơ-ra-ên là nối tiếp nhau theo thứ tự. Bức tranh không phải là một chuỗi thời gian nối tiếp về một người Quan Xét đã làm xong chức vụ của mình, rồi tiếp theo sau đó là Quan Xét khác, tất cả cộng lại thành 410 năm. chúng ta đọc về 20 năm xét đoán của một Quan Xét này và 40 năm xét đoán của một Quan Xét kia, nhưng điều đó sẽ không phải là tổng cộng 60 năm nếu họ phán xét đồng thời. Vì vậy, chúng ta có 410 năm phán xét, nhưng không theo trình tự liên tục.

Thứ hai, không phải tất cả các Quan Xét đều xét đoán tất cả các dân tộc. Trong nhiều trường hợp, họ là Quan Xét  địa phương. Họ có thể đã không được công nhận vượt ra ngoài chi phái của họ với tư cách là Quan Xét. A-bi-mê-léc là một ví dụ rõ ràng. Ông được cho là đã trị vì trong Y-sơ-ra-ên (9:22); tuy nhiên, có vẻ như ông ấy đã chỉ được công nhận là vua ở Si-chem.

Khi Đê-bô-ra, người được biết đến rộng rãi hơn với tư cách là một Quan Xét hơn bất kỳ người nào khác, kêu gọi cả nước theo bà ra trận, một số chi phái đã không đến. Nhìn vào bài ca của bà ở chương 5 để xem bà nghiêm khắc như thế nào với các chi phái đã không đáp lại lời kêu gọi của bà ấy. Tại sao họ đã không trả lời? Họ có công nhận bà với tư cách là Quan Xét không? Chúng ta thấy một số trường hợp mà nơi những người khác là Quan Xét địa phương.

Thứ ba, các thuật ngữ “sau” và “một lần nữa” không nên được coi là những từ có ý nghĩa theo trình tự thời gian, mà là sự chuyển tiếp văn học. Người viết sẽ kể về một sự kiện, sau đó giới thiệu một sự kiện khác – có thể là xảy ra đồng thời—bằng cách nói, “Một lần nữa.. . .” Nó chỉ đơn giản là một cách để chuyển từ một sự kiện này đến sự kiện khác. Điều tương tự cũng đúng với việc sử dụng từ “sau.” Từ “sau” nghe có vẻ giống như một thuật ngữ có ý nghĩa về mặt thời gian đối với chúng ta, nhưng theo phong cách viết phương Đông thì vấn đề nằm ở cách nói hơn là thời gian, “Sau khi tôi đã nói với bạn điều đó, tôi sẽ nói với bạn một điều khác.”

Với sự hiểu biết về ba sự thật này,chúng ta có thể thấy rằng không tồn tại vấn đề thời gian; Kinh thánh không mâu thuẫn với chính nó. Tổng số tích lũy của 410 năm phán xét bao gồm một chút hơn 200 năm.

Sự Chia rẽ Giữa Các Chi phái

Thời gian của các Quan Xét là một thời gian đáng buồn trong Lịch sử của Y-sơ-ra-ên bởi vì người dân đã rất chia rẽ. Sự chia rẽ thể hiện rõ ở chỗ không phải tất cả các chi phái đoàn kết để chiến đấu chống lại kẻ thù. Điều đó thể hiện rõ qua những cuộc cãi vã của họ. Người Ép-ra-im hai lần chỉ trích một nhà lãnh đạo quân sự vì đã không gọi cho họ để tham gia một trận chiến. Ghê-đê-ôn ăn nói trôi chảy thuyết phục người Ép-ra-im  rằng Chúa đã đã sử dụng họ theo cách tuyệt vời hơn những gì Ngài đã sử dụng Ghê-đê-ôn và ba trăm người của ông, nhưng Giép-thê giết những người đã chỉ trích ông ta. Vụ giết đồng bào Y-sơ-ra-ên này là bằng chứng về sự chia rẽ của họ. Không nơi nào mà trạng thái chia rẽ rõ ràng hơn hơn trong câu chuyện cuối cùng trong sách, trong đó Y-sơ-ra-ên trừng phạt chi phái Bên-gia-min gần như tới điểm tuyệt chủng. Có lẽ đây là thời điểm thiếu lãnh đạo nhất.

Vai Trò Của Phụ Nữ

Vai trò của phụ nữ rất nổi bật trong Sách Các Quan Xét. Đê-bô-ra là người chiếm ưu thế nhất của những người phụ nữ trong sách này. Tuy nhiên, theo  John Sampey, cô ấy đã từng lãnh đạo Y-sơ-ra-ên vì thiếu nam lãnh đạo.[9]  Suy nghĩ của Sampey có thể được gợi ý bởi các Quan Xét 5:7 trong bản dịch KJV và ASV. Cả hai bản dịch nói rằng các nhà lãnh đạo đã ngừng ở Y-sơ-ra-ên. một số nghĩ rằng thậm chí Đê-bô-ra  đang hát về những người đàn ông không chịu lãnh đạo và cô ấy phải làm vậy.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Đê-bô-ra  chỉ đề cập đến tính lãnh đạo quân đội; cô ấy đã không đề cập đến chức Quan Xét của mình, điều này là một ví dụ mang  ý nghĩa quan trọng xa xăm hơn về cách Chúa sử dụng phụ nữ trong thời kỳ đó. Fleming James khen ngợi cô ấy, nói rằng, “Trong số những phụ nữ của Cựu Ước cô ấy giữ một vị trí độc nhất. Không ai khác được ghi lại rằng cô ấy đã phán xét Y-sơ-ra-ên và đưa nó đến chiến thắng.”[10]

Willis nêu tên một số phụ nữ quan trọng trong lịch sử Các Quan Xét. Ông bắt đầu với Đê-bô-ra , lưu ý rằng cô ấy “được ca ngợi là một ‘nữ tiên tri’ (4:4), ‘quan xét’ (4:4, 5), và một người ‘mẹ Y-sơ-ra-ên’ (5:7).” ông đặt tên là Gia-ên và mẹ của Si-sê-ra trong cùng câu chuyện về Đê-bô-ra. Sau đó, Willis chỉ ra những vai trò nổi bật của ba người phụ nữ Phi-li-tin trong cuộc đời của Sam-sôn: một phụ nữ ở Tim-na (14; 15), gái điếm ở Gaza (16:1-3), và nổi tiếng nhất trong ba, Đa-li-la (16:4-21).[11]

PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT

Một vị vua cho Y-sơ-ra-ên

Một trong những câu hỏi lớn nhất nảy sinh từ cuốn sách này là: “Có phải Đức Chúa Trời muốn Y-sơ-ra-ên có vua không?” bốn lần trong Các Quan Xét dường như Chúa đã nói rằng lý do mọi người đã làm điều ác quá thường xuyên là họ không có vua (17:6; 18:1; 19:1; 21:25). Harrelson chỉ đến hai quan điểm về ý muốn của Đức Chúa Trời về vấn đề này. Nó xuất hiện trong 1 Sa-mu-ên 8, 10 và 12 rằng Đức Chúa Trời  không muốn dân có vua, và rằng Ngài đã nhìn thấy sự từ chối cá nhân trong yêu cầu của họ.[12] (Đặc biệt lưu ý 1 Sa-mu-ên 8:7.) Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã ban cho họ một vị vua và hướng dẫn họ trong quá trình lựa chọn vị vua đó. Hơn nữa, Phục Truyền Luật Lệ Ký 17:14 báo trước rằng khi họ đến Đất Hứa và xin một vị vua, Chúa sẽ ban cho họ một vị vua. Sự hướng dẫn đã được đưa ra về cách họ  chọn một vị vua và vị vua đó phải trở nên như thế nào. Phân đoạn dường như bày tỏ sự chấp thuận yêu cầu sắp tới cho một nhà vua. Đức Chúa Trời hầu như đã có ý định cho Y-sơ-ra-ên có một vị vua. Vấn đề trong 1 Sa-mu-ên là họ thái độ. Họ chối bỏ vương quyền của Đức Chúa Trời, không phải bằng cách yêu cầu một vị vua, mà bằng cuộc sống và bằng suy nghĩ của họ. Điều này có nghĩa là sách Các Quan Xét cho thấy sự cần thiết của sự lãnh đạo đúng đắn. Nó minh họa những gì xảy ra khi có không có vua trong xứ. Artur Weiser đã gợi ý rằng một trong những mục đích của Sách Các Quan Xét  là để cho thấy sự cần thiết của một vị vua. Anh ta đã viết, “Phần thứ ba chứa hai câu chuyện . . . nhằm mục đích chứng minh sự cần thiết của một chế độ quân chủ từ các điều kiện không ổn định trong thời trước các vua (17:6; 18:1; 19:1) khi ‘mỗi người tự làm điều mà  mình cho là đúng’” (17:6; 21:25).[13]

Lòng Thương Xót của Đức Chúa Trời

Chúng ta nên được đánh động bởi lòng thương xót của Đức Chúa Trời  trong Sách Các Quan Xét. Mỗi lần dân Y-sơ-ra-ên ăn năn và kêu cầu Ngài, Ngài đã nghe họ và cử Người giải cứu. Sự kiện này được minh họa trong 2:18. Nó đưa ra mô hình được đề cập trước đó và tuyên bố, “Vì Chúa động lòng thương hại bởi tiếng rên rỉ của họ vì những kẻ áp bức và làm khổ họ.” Chương 10 liên quan đến một trong những sự kiện Đức Chúa Trời giải cứu Y-sơ-ra-ên. Sau khi kể lại sự ăn năn của họ , nhà văn nói thêm: “Và Ngài không thể chịu nổi sự khốn khổ của Y-sơ-ra-ên nữa” (10:16).

Công lý của Đức Chúa Trời  

Công lý của Đức Chúa Trời cũng được thấy trong Sách Các Quan Xét. Mỗi lần người dân quay sang các thần tượng, Đức Chúa Trời đã gửi một trong các kẻ thù của họ để làm khổ họ. Ngài không cho phép sự bất tuân. Điều này là minh chứng trong tường thuật về Ghê-đê-ôn. Khi Y-sơ-ra-ên ăn năn, Đầu tiên Đức Chúa Trời gửi một nhà tiên tri để nói với mọi người rằng họ đã không tuân theo mệnh lệnh của Ngài  (6:8-10).

Sự Lãng Quên Của Con Người

Sự lãng quên của con người là một chủ đề luôn lập lại diễn ra trong sách. Mỗi lần Chúa giải cứu Y-sơ-ra-ên, họ sẽ trung thành trong một thời gian ngắn, đôi khi chỉ trong khoảng thời gian Người giải cứu của họ còn sống, và sau đó họ sẽ quay trở lại thờ thần tượng của những người mà họ đã không có đuổi ra khỏi nơi đó. Sự Tường thuật về Ghê-đê-ôn cũng minh họa điểm này. Vào cuối câu chuyện của ông, 8:33 nói, “Sau khi Ghê-đê-ôn qua đời, dân Y-sơ-ra-ên trở lại hành-dâm cùng các Ba-anh, và chọn Ba-anh-Bê-rít làm thần. . . . .” Lý do khiến họ lại phạm tội sớm như vậy được đưa ra trong câu tiếp theo: “Như vậy, các con trai Y-sơ-ra-ên không nhớ đến Chúa, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đã giải cứu họ khỏi tay kẻ thù tứ phía.” Khi họ quên lòng tốt và lòng thương xót của Đức Chúa Trời  đối với họ, sự tôn thờ của họ và cuộc sống của họ trở nên hư hỏng. Con người luôn luôn hay quên. Đó là lý do tại sao lịch sử thường lặp lại, như đã thấy về các mô hình trong Các quan xét, và đó là lý do tại sao việc học của cuốn sách này là rất có giá trị đối với chúng ta.

Giô-suêCuộc chinh phục Ca-na-an của dân Y-sơ-ra-ên “Y-sơ-ra-ên phục-sự Đức Giê-hô-va trọn lúc sanh-tiền của Giô-suê và các trưởng-lão mà biết mọi việc Đức Giê-hô-va đã làm vì Y-sơ-ra-ên.” (Giô-suê 24:31). Cái chết của Giô-suê (Giô-suê 24:29; Các Quan Xét 2:8) “Hết thảy người đời ấy cũng được tiếp về cùng tổ-phụ mình; rồi một đời khác nổi lên, chẳng biết Đức Giê-hô-va, cũng chẳng biết các điều Ngài đã làm nhân vì Y-sơ-ra-ên.” (Các Quan Xét 2:10; xem 2:11, 12; 3:7, 8; 6:1). THỜI CỦA CÁC CÁC QUAN XÉT “Trong lúc đó, không có vua nơi Y-sơ-ra-ên, mọi người cứ làm theo ý mình tưởng là phải.” (17:6; 21:25).
Ốt-ni-ên3:9-14  
Ê-hút3:15-30  
Sam-ga3:31
Đê-bô-ra4:1—5:31  
Ghi-đê-ôn6:11—8:35  
A-bi-mê-léc9:1-57  
Thô-la10:1, 2  
Giai-rơ10:3-5  
Giép-thê11:1—12:7  
Iếp-san12:8-10  
Ê-lô-ni-ca12:11, 12  
Áp-đôn  12:13-15
Sam-sôn  13:1—16:31
Hê-li  1 Sa-mu-ên 2:22—4:18
Sa-mu-ên  1 Sa-mu-ên 3:1—28:3 “Hết thảy những trưởng-lão đều hiệp lại, đến tìm Sa-mu-ên tại Ra-ma, và nói rằng: Kìa, ông đã già-yếu, còn các con trai ông lại chẳng noi theo gương của ông. Bây giờ, xin hãy lập trên chúng tôi một vua đặng đoán-xét chúng tôi, y như các dân-tộc khác đã có rồi.’” (1 Sa-mu-ên 8:4, 5). THỜI CỦA CÁC VUA “Cả dân-sự đều đi đến Ghinh-ganh; tại đó, trước mặt Đức Giê-hô-va, chúng lập Sau-lơ làm vua. Tại đó chúng dâng của-lễ thù-ân cho Đức Giê-hô-va. Đoạn, Sau-lơ và hết thảy người Y-sơ-ra-ên vui-mừng khôn xiết.” (1 Sa-mu-ên 11:15; đối chiếu 10:1, 24).
Sau-lơ1 Sa-mu-ên 9:1-31:13

Nguồn: http://biblecourses.com/English/en_lessons/EN_199312_01.pdf

©Copyright, 1993, 2001 by Truth for Today

ĐÃ ĐĂNG KÝ BẢN QUYỀN

Biên dịch: Hồng Ngọc


[1]  Edward J. Young, An Introduction to the Old Testament (Grand Rapids, Mich.: Wm. B. Eerdmans Publishing Company, 1963), 179.

[2] Arthur H. Lewis, Judges and Ruth (Chicago: Moody Press, 1979), 17.

[3] John T. Willis, The Message of Old Testament History, vol. 2, Joshua to Ruth. The Way of Life Series, ed. J. D. Thomas (Abilene, Tex.: Biblical Research Press, 1977), 60.

[4] Walter Harrelson, Interpreting the Old Testament (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1964), 130.

[5] Ibid., 135.

[6] Samuel J. Schultz, Cựu Ước Nói (SanFrancisco: Harper & Row, 1990), 103. Trong danh sách này, Schultz

bỏ qua Sam-gar, một quan xét được đề cập trong 3:31 như một quan xét giải phóng Y-sơ-ra-ên khỏi người Phi-li-tin, vì không có số lượng năm được đưa ra liên quan đến thời gian làm quan xét của ông ấy.

[7] Willis, 57.

[8] 8 John Marshall Lang and Thomas Kirk, Studies in the Book of Judges (Glasgow, 1890; reprint, Minneapolis, Minn.: Klock and Klock Christian Publishers, 1983), 8.

[9] John R. Sampey, The Heart of the Old Testament (Nashville, Tenn.: Broadman Press, 1922), 92.

[10] Fleming James, Personalities of the Old Testament (New York: Charles Scribner’s Sons, 1953), 63.

[11] Willis, 65, 81.

[12] Harrelson, 157.

[13] Artur Weiser, The Old Testament: Its Formation and Development (New York: Association Press, 1964), 148.

Scroll to Top